Thursday, October 31, 2013

Tang lễ Võ Nguyên Giáp, một trường hợp nghiên cứu về tẩy não - Bài Trần Trung Đạo

 
 
Việt Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một ông Võ Nguyên Giáp đã chết từ năm 1984 và một ông Võ Nguyên Giáp khác vừa mới qua đời. Hai ông Võ Nguyên Giáp về thịt xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là hai. Khi Võ Nguyên Giáp còn sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp tắt thở đảng lại quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các hãng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần. Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18 giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố tình viết sót. Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao. Chức vụ về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số 58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984. Khi đó ông đã rời chức Bộ Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế giới đều biết mà đảng còn giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người may mắn. Khi còn sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi, vinh danh và thương tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lãnh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi như ông. Việc chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu đã bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Võ Nguyên Giáp chết vào đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư có lẽ cũng không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn (1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên Giáp còn cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đình đám hơn.
Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê bình kiểm thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách chứ không phải là một tình cảm tự nhiên. Tận diệt kẻ thù còn sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đã chết cũng là một trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình khóc Mao Trạch Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có trong các điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đã chết. Họ đối xử nhau còn tệ hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đã làm mờ nhân tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Võ Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên giường bịnh vì không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành kể trong hồi ký Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết hết cả gia đình.
Nhưng tại sao lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?
Lãnh đạo CS cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử. Như người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong tình hình mới trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á châu như Trung Quốc, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đã đồng ý rằng các nước Cộng Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là sự liên hệ lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và dòng sống của đất nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930 trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối đa mối liên hệ này.
Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận của Đảng Cộng Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của dân tộc. Đừng quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lãnh đạo cách mạng, đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi về sau như đảng CSVN. Đó là lý luận của kẻ cướp nước.
Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt tình ủng hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp là những que củi cần thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã nhiều năm nguội lạnh. Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt nhân dân và đã nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung Quốc còn tồn tại vì khái niệm tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn đã có lợi cho CS.
Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy não. Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam còn quá nhiều người bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người dân Trung Hoa ít ra đã chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lãnh đạo của phong trào Thiên An Môn đã chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do dân chủ và không có một con đường nào khác.
Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận tra tấn vô cùng dã man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ còn máu và mủ. Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết. Tuy nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do là một quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji Seong-ho, người đã vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Đài Loan để tìm tự do năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đã đánh mất niềm tin trong lòng dân, và khi tôi còn ở đó người dân đã nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng cũng như uy tín của chế độ đã giảm nhiều.
Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới lãnh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua các chính sách đổi mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại đã theo những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra cũng biết tự trọng làm im.
Khi còn sống, những lá thư của ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ mình luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Võ Nguyên Giáp. Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên Giáp mà cảm thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não lại tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời chiến tranh. Tang lễ của Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị lừa gạt một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam còn quá đông. Thì ra, dù nhân loại đã bắt đầu thám hiểm những vì sao xa nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ lên một tiếng nào.
Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não, sau 38 năm, tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đã phạm nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng không từ chối đang có nhiều tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là hiện tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy não bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.
Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì nói” là ai và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lý học Michael Langone mô tả đó tình trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn diện và đắp đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.
Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ nửa khuya thức dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi những những nhận thức chính trị của mình từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của mình do ai cấy vào? Ông Võ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế như nhiều lãnh đạo CS khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một trong những người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay? Nếu ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt Nam sao? Và cứ thế, hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết luận mà đảng đã trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp mà cả một giai đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những gì được gọi là “chân lý” và “sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.
Giải tẩy não
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong về tẩy não dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lý học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại Trung Quốc (Thought Reform and the Psychology of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông đã đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng của CS: (1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đòi hỏi sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên tục để đạt đến trình độ tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xã hội CS phải phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận như đồng nghĩa với khoa học và phê bình chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà còn vi phạm các nguyên tắc “khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ (Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7) Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ thuyết); (8) Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại trong xã hội (Có hai hạng người trong xã hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton trình bày về chính sách tẩy não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy não CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.
Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận mình từng bị tẩy não. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xã hội Tây phương đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đã củng cố quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự tang lễ của lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ý Alessandro Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico Berlinguer. Đảng CS Ý trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong đời sống chính trị Ý và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng mình không bị tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học như là chân lý. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thật, thừa nhận tình trạng bị tẩy não giải tẩy não liên tục.
Can đảm đối diện với sự thật. Mọi hành trình bắt đầu từ chính con người. Nếu những người bị tẩy não còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức mình đang có là kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy đem những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án vì người bị tẩy não chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn người khóc vật vã trên đường phố trong tang lễ của ông Võ Nguyên Giáp không quan trọng vì ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì khác. Họ là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết thương và tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập, khách quan và tự do.
Thừa nhận tình trạng bị tẩy não. Con người thường bất đồng với những điều nghịch lý nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lý. Người bị tẩy não thường không thừa bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ chối. Tuyên truyền tẩy não CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin nhưng thuyết phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính. Những tù binh Mỹ bị bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những người tốt, chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để làm một công việc trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ giết chết. Người tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.
Tiến trình giải tẩy não là một tiến trình liên tục. Tẩy não dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù bình Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và tình cảm, họ nhanh chóng trở lại bình thường. Những người sống ngay giữa lòng chế độ, việc giải tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư tưởng để chống lại các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.
Sự thật sẽ thắng
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến vai trò của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đã đã đưa ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xã hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người đã tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ; một số có thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu nói “Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như báo chí Liên Xô mô tả và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp phần quan trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đã có đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lý do chính làm tan vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô đã vượt qua được căn bịnh tẩy não. Các chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời Lenin, Stalin đã không còn hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hãi, không còn ai kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xã hội, ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh và yêu chuộng hòa bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng tại châu Âu và sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần những con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.
 
Trần Trung Đạo

Wednesday, October 30, 2013

Kinh nghiệm tự chửa bệnh - HHVL




Vào năm 2001 tôi bị đau dưới gót của hai bàn chân và xương sống gần chỗ lưng quần cứ mỗi sáng ra khi thức giấc tôi bỏ chân xuống đất bị đau không tưởng được phải đi cà nhắc độ hơn nửa tiếng rồi mới từ từ đi bình thường lại được , nhưng dưới gót vẫn đau nhói từng chặp .
Tôi đến Bác sỹ khám rồi giới thiệu đi chụp film BS nói tôi bị gai dưới phần sau của bàn chân và sống lưng BS chuyễn qua vật lý trị liệu thời gian không hết sau đi Bác sỹ chuyên khoa . BS nói nếu có đưa đi mổ thì thời gian sau nó cũng sẽ bị trở lại không lý phải đi mổ hoài .
. Đau quá tôi tự nghĩ mình phải cố gắng tìm cách tập thử may ra có đở bớt chút nào chăng ? Tôi bắt đầu đi bộ ngày hai lần lúc đầu mỗi lần một tiếng đồng hồ , tập lắc mông mới đầu mỗi bên 100 cái  cứ như vậy tăng dần lên và cuối cùng đạt được là mỗi bên 6oo lần ngày hai lần ( nhớ là phải đếm để biết mình mỗi ngày tăng lên được bao nhiêu ? ) đi bộ cũng tăng giờ lên nhiều Cùng lúc phải tập ngồi xuống , đứng lên
Cách tập bỏ hai tay ra sau lưng hai chân đứng thẳng hơi dang rộng để dể ngồi xuống đứng lên , khi đứng lên chân cũng thẳng lúc mới đầu rất khó lắm khoảng 20 lần rồi cứ mỗi bữa tôi tăng lên năm lần bất cứ lúc nào thấy tập được là tôi tập không lâu sau tôi thấy cái lưng nó bớt đau nhói lần và hai gót chân sáng ngày bỏ xuống đở đau nhiều cứ như vậy tôi tập hoài ngồi xuống đứng lên được 200 lần . Nhớ mỗi lần tập là phải đếm . Nhưng trọng lượng của tôi đến 70 kg nên ngồi xuống đứng lên nhiều hai cái chân nó bị mõi , gần như một năm là tôi khỏi hẳn tính ra đến nay 11 năm tôi không còn bị như vậy nữa và con người thật là khỏe già cỡ 65 tuổi mà ngày đi bộ từ ba tới bốn tiếng đồng hồ vẫn 70 kg như thuở nào trước áp huyết cao nay giảm xuống bình thường BS bảo không cần uống thuốc nữa , tiểu đường không có và mở trong máu cũng không có luôn .
  Ở VN tôi có hai người bạn họ cũng bị như tôi . Tôi chỉ cho bạn tôi cách tập đó và cũng có kết quả tốt nhưng vì bạn tôi họ không chuyên tập như tôi được nên khá hơn lúc trước 60 - 70 % . Nếu trời lạnh các bạn thử ngồi xuống đứng lên như vậy độ 25 - 30 lần là người mình nóng lên sẽ hết lạnh ngay . Nếu ai có thắc mắc gì thì liên lạc email của tôi . Tôi sẽ nói rõ ràng hơn . Gia đình con cháu tôi và có số bạn bè biết tôi bị đau như vậy và nay đã khỏi hẳn .    ( hahoangvinhlac08@gmail.com ) . Điều căn bản là phải nhẫn nại tập mới đạt được như ý .
  Đôi lời gởi đến qu1y vị nào có bị như trường hợp của tôi muốn tập theo thì cứ đọc kỷ mà thực hành . Không hiểu liên lạc tôi nhiệt tỉnh chia xẽ . Xin Chào quy bà con
                                                  Hà - Hoàng - Vĩnh - Lạc

Chùm Thơ Á Nghi




 
KHEN ĐÁP TRẢ.
 
Vừa thành khẩn, vừa say mê
Anh khen đủ thứ, chẳng hề chê chi!
 
Vừa lí nhí, vừa kiêu kỳ
Em chê đủ thứ. Cớ gì dại khen!
Vậy mà lạ lắm à nhen
Đêm về mơ mộng, mon men khen Người
 
Khen đôi môi chẳng tiếc lời
Khen đôi mắt liếc đó ơi thiện lành!
Khen khuôn mặt cứ nhìn… mình
Khen bình minh đẹp, trữ tình hoàng hôn.
Ước gì Chàng đã trực ngôn
Mai em sẽ lại hớp hồn Người Ta
Vừa thành khẩn, vừa hiền hòa
Khen… đôi nhẫn cưới Mẹ, Cha chọn ngày.
 
Á Nghi, 20-10-2013.
 
NGON THUA NGOAN.
“Cá nhỏ con ngon thịt”*
Người nhỏ nhít ngon chi?
Thôi chẳng thèm so bì
Cứ ngoan hiền là nhất.
 
Á Nghi, 20-10-2013.
*Không nhớ tác giả?
 
GUỐC TRE ƠI! GUỐC TRE À!
Đọc “TẢN MẠN MÂY TRE” của Trần Công Nhung.
 
Anh trao một chiếc mo cau
Có ba chữ đẹp, đọc sao bồi hồi
Bút tre chấm mực mồng tơi:
“Anh thương em!” Quả cả đời chẳng phai!
Guốc Tre về nhớ thương ai
Đánh vần cả buổi, mơ …khay cau trầu...
Á Nghi, 20-10-2013.
 
CỨ LẶN SÂU VÀO BIỂN TÌNH ÁI!
-Sẽ như thế! Anh ơi, sẽ như thế!
Cứ vụng về, cứ e thẹn, đam mê
Cứ hẹn thề, mặc kệ nét chân quê
Tình như thế mới bướm kề hoa nở.
-Sẽ như thế cho đến khi ngộp thở
Sẽ dại khờ, lặn đến thiếu oxy
Sắp ngất đi, lại hoan hỉ, thầm thì:
Mình lặn mãi, xem ai tài cho biết!
 
Á Nghi và Chàng, 24-10-2013.
 
CÓ NÀY, THIẾU NỌ.
 
Tưởng nhớ Ba
và nhớ về Ba Má thời mới quen nhau.
Người ta quang gánh đi qua
Riêng em đứng lại thiết tha nhớ chàng
Mỗi ngày yên lặng bày hàng
Nhưng tim giấu kín rộn ràng dáng anh.
Mới ngày qua, đám cưới mình
Bây giờ em đã quẩn quanh tuổi già
Bây giờ anh đã …đi… xa
Còn em quanh quẩn căn nhà cô đơn.
Bát tuần thọ, ước chi hơn
Niềm vui tiên tổ thi ơn đã nhiều!
Á Nghi, 20-10-2013.
 
KIỆU YÊU.
Em có sức quyến rủ
Trong nụ cười duyên xinh
Ta đem lòng tơ tưởng
Đem duyên se chữ tình.
Hoa ơi! Hoa chưa chủ
Sao hoa đứng một mình?
Xin lót bao nhiêu lá
Ta đưa nàng về… dinh.
 
Á Nghi, 20-10-2013.

Wednesday, October 16, 2013

Yêu đời nên chẳng...- Thơ Nguyễn Thùy




Hôm qua vừa nói yêu em
Hôm nay gặp lại bỗng quên mất rồi!
Hôm qua vừa nói yêu em
Hôm nay gặp lại bỗng quên mất rồi!
Bao lần tôi hỏi lại tôi
Yêu ai thì chọn một người cho xong
Nhưng rồi lòng lại nhủ lòng
Tình không biên giới mấy trùng biển xanh
Yêu riêng một kẻ sao đành
Tình như biển rộng sao dành riêng ai
Trơi cao, núi thẳm, sông dài
Tình theo trăng nước, gió mây phiêu bồng
Yêu khăng khít cũng là không
Yêu qua quýt cũng là chung thủy tình
Tình như những đám rêu xanh
Ðem thời gian sống bám thành lũy xiêu
Tình như con nước ngọn triều
Chở muôn ý mộng lên nhiều đỉnh cao
Tình như ánh sáng trăng sao
Soi chung vạn cõi soi nào riêng nơi
Yêu người là để yêu tôi
Yêu tôi là để yêu đời đắm say
Yêu đời nên chẳng yêu ai!
(Riêng chung cũng một lòng nầy mà thôi
Ðừng buồn em(anh) nhé, em ơi
Yêu đời là để đủ lời Yêu Em(Anh) !)

nguyễn thùy


Hái Giọt Sương Trời

Ta(1) đi hái giọt sương trời
Tung vào gió cho lên lời vi vu
Cho lá cỏ thơm mùi vũ trụ
Cho bình nguyên bát ngát mật tròn trăng
Cho lũng đèo nghe nước réo chân ghềnh
Cho phố thị dừng chuyện chiếu chăn bừa bãi...

Trong cảnh đó ta mời em về lại
Cùng ta ca bài ca tình ái
Mời nhân gian cùng mở mắt một lần
Ðể nhìn nhau trong tinh thể vô ngần
Và để nói trong mặn nồng cảm thụ
Và để nghe trong tha thiết tương phùng
Ðể cho đời vẹn nghĩa thủy chung
Ðể mây gió thiên niên về kết tụ
Mộng hài nhi đọng mãi nụ môi hồng
Ðể bốn phương tám hướng mây sương
Nghe lắng đọng lời trần gian trác tuyệt
Ngợi Thượng Ðế đã đi vào cõi chết (2)
Ðể cho người được sống đến hôm nay
Ðể chim non thôi hát khúc lưu đày
Sông với núi không ngăn miền cách biệt
Thịt xương da đâu phải thứ vô hồn
Từ đèo cao, lũng thấp, đường truông
Từ phố thi, khuê phòng, trùng dương bát ngát
Sáng danh ca bất tuyệt địa cầu tròn
Muôn vạn nẻo không dẫn về sa mạc
Muôn vạn lời không hàm hỗn mê cung
'Khung cửa hẹp' (3) mở ra trời đất rộng
'Cõi người ta' (4) thơm ngát ý tinh thành
Lồng lộng nghìn phương lời ca hội ngộ
Nhân loại cười dựng lại một bình minh...

Trong cảnh đó ta mời em về sống
Cùng ta ca dưới trời hoa mộng
Mừng nhân gian cùng mở mắt một lần
Ngợi Thượng Ðế đã đi vào cõi chết (2)
Ðể cho người được sống đến hôm nay
Ðể em gần anh mãi mãi kiếp nầy!

nguyễn thùy